Như vậy, dù là một tổng thống đầy
quyền lực đến mức có thể sửa hiến pháp để bãi bỏ qui định giới hạn thời gian
cầm quyền nhưng ông đã không thoát khỏi qui luật của tạo hóa. Ông đã qua đời ở
tuổi 58 vào hôm 5.3, sau thời gian dài chống chọi với căn bệnh ung thư, giai
đoạn cuối bị liệt nửa người. Ông đã trải qua 4 lần phẫu thuật vì ung thư kể từ
tháng 6. 2011 đến nay. Đau yếu đến vậy nhưng ông nhất quyết không trao chức
tổng thống cho người khác lãnh đạo đất nước. Ông là Hugo Chavez- tổng thống
Venezuela trong suốt 14 năm, kể từ năm 1998, có lẽ là trọn đời nếu ông không bị
căn bệnh quái ác này.
Cái chết của ông làm nhiều
Venezuela đổ ra đường thương khóc tương tự như dân Triều Tiên đã khóc khi lãnh
tụ Kim Jong Il chết. Lãnh đạo nhiều nước gửi điện chia buồn và cử người đến dự
lễ tang ông. Trong khi đó, một số người đấu tranh cho dân chủ lại vui mừng
trước tin này, xem đó như một cơ hội cho quá trình dân chủ hóa, tôn trọng nhân
quyền ở Venezuela.
Tổng thống Hugo Chavez-nhân vật
tự phong là cách mạng và theo xã hội chủ nghĩa đã giành được ủng hộ của người
nghèo trong nước. Nhưng các nhà chỉ trích nói ông không biết quản lý kinh tế và
độc tài.
Thông tin về Venezuela và Tổng
thống Hugo Chavez: Chúng ta có thể tóm tắt
như sau
Venezuela là một quốc gia ở Nam
Mỹ diện tích gần 1 triệu Km2 (gấp 3 lần nước ta) với dân số 28 triệu người
(thua ta 3 lần), là nước có sinh hoạt chính trị dân chủ từ năm 1958. Đất nước
này rất giàu tài nguyên thiên nhiên, có một nguồn dự trữ dầu mỏ và khí đốt to
lớn. Hiện nay, Venezuela là một trong 10 nước xuất khẩu dầu thô lớn nhất thế
giới (thứ 4). Dầu mỏ được phát hiện tại Venezuela đã mang lại sự thịnh vượng
cho nền kinh tế đất nước, thu nhập quốc dân được nâng cao. Từ thập niên 1950
đến thập niên 1980, Venezuela là một trong những cường quốc kinh tế tại Mỹ
Latinh. Thu nhập bình quân của nước này gia tăng nhanh chóng đã thu hút rất
nhiều lao động từ khắp nơi trên thế giới. Tuy nhiên khi giá dầu thế giới giảm
mạnh trong thập niên 1980, nền kinh tế Venezuela đã bị một phen điêu đứng, đói
nghèo gia tăng đến mức 49% năm 1998, bất ổn xã hội và nạn tham nhũng trầm trọng
Hugo Chavez xuất thân từ địa vị
thấp kém, chịu cảnh bần cùng, sự đau khổ, đôi khi không có bất kỳ thứ gì để ăn.
Lớn lên ông là một quân nhân có tinh thần dân tộc và hướng đến người nghèo. Ông
được truyền cảm hứng từ ý tưởng của tướng Velasco (Tổng thống cánh tả Peru)
rằng quân đội phải hành động vì lợi ích của các tầng lớp lao động khi giai cấp
thống trị tham nhũng. Khi đất nước lâm vào nghèo đói do khủng hoảng kinh tế và
tham nhũng, ông đã thực hiện đảo chính năm 1992 nhưng thất bại phải đi tù. Hành
động này gây tiếng vang rất lớn trong tầng lớp dân nghèo, điều này giúp ông đắc
cử tổng thống qua bầu cử năm 1998.
Nắm quyền tổng thống, ông đã lãnh
đạo đất nước Venezuela theo đường lối cánh tả với học thuyết của chủ nghĩa
Bolivar và chủ nghĩa xã hội thế kỷ 21 cho châu Mỹ. Ông quốc hữu hóa một loạt
ngành kinh tế then chốt, đứng đầu là ngành công nghiệp dầu mỏ, ngành kinh tế
đóng góp nhiều nhất cho kinh tế Venezuela, tới 1/3 GDP, 80% giá trị xuất khẩu
và hơn một nửa ngân sách nhà nước. Ngoài ra ông còn quốc hữu hóa tài sản của
các tập đoàn Cargill Inc., Gruma SAB và hãng bán lẻ của Pháp là Casino Guichard
Perrachon nhằm kiểm soát các chuỗi sản xuất và phân phối thực phẩm. Từng bước
ông quốc hữu hóa các ngành truyền hình, báo chí, điện thoại, năng lượng,….Ông
trao các chức vụ lãnh đạo công ty nhà nước cho các thành viên đảng cầm quyền
của mình nắm giữ.
Ông thực hiện trợ cấp xã hội trên
qui mô lớn, duy trì giá xăng ở mức dưới 0,1 USD/gallon (tương đương hơn 500
VND/lít), trợ cấp miễn phí giáo dục, y tế, nhà ở. Các chương trình kinh tế xã
hội này đã làm giảm đáng kể tỷ lệ đói nghèo, theo số liệu của chính phủ từ mức
49% năm 1998 xuống còn 12,3% năm 2007. Bí quyết để thành công là do giá dầu đã
tăng cao khi ông nắm quyền, từ 10 USD/thùng lên 100 USD/thùng (10 lần) nên ông
có nguồn tài chính dồi dào để tài trợ cho các chương trình trên.
Ông mạnh mẽ lên tiếng chống Mỹ và
bọn nhà giàu, thiết lập liên minh với các chính phủ cộng sản của Fidel Castro
và sau đó là Raúl Castro tại Cuba và các chính phủ xã hội của Evo Morales tại
Bolivia, Rafael Correa tại Ecuador và Daniel Ortega tại Nicaragua, ông cũng xúc
tiến quan hệ ngoại giao với những quốc gia chống Mỹ như Belarus hay Iran thậm
chí là Bắc Hàn, kết thân với các nước Trung Quốc, Libi, Syria, Việt Nam. Ông
cung cấp dầu giá rẻ và viện trợ cho một loạt nước đồng minh, nổi nhất trong đó
là Cuba. Vì điều này ông đã tạo ra được một đồng minh chống Mỹ xung quanh mình.
Mặc dù các chính sách của Chavez
làm phật lòng nhiều người, số người vẫn ủng hộ ông cũng không phải ít. Ông
chinh phục được trái tim của người nghèo trong nước.
Các chương trình kinh tế XHCN của
ông gây ra nhiều hệ quả nghiêm trọng cho đất nước: tỷ lệ lạm phát đã tăng 30,9%
năm 2008 và tăng 25,1% trong năm 2009, cao nhất trên toàn khu vực châu Mỹ. Kinh
tế trì trệ, tăng trưởng âm 2,9% trong năm 2009. Đầu tư tư nhân và nước ngoài
sụt giảm nghiêm trọng do lo ngại các vụ quốc hữu hóa.
Đi đôi với tình trạng lạm phát
cao nhất nhì thế giới, đất nước này còn mất kiểm soát đối với tội phạm khiến
cho Venezuela đang có tỷ lệ tội phạm cao nhất thế giới.
Đô thị hóa nhanh và mất cân bằng
nghiêm trọng trong phân bố dân cư. Khoảng 85% dân số Venezuela sống tập trung
tại các đô thị miền bắc, nhất là thủ đô Caracas. Venezuela là một trong những
nước có tỉ lệ dân cư sống tại thành thị cao nhất Nam Mỹ.
Hugo Chavez cũng không diệt trừ
được tham nhũng. Bằng cách cho giới quân sự quản lý bộ máy ngân sách cồng kềnh,
ông Chavez đã tạo điều kiện cho tham nhũng lan rộng ngay trong giới quân sự.
Điển hình như công ty nhà nước Fonden được thành lập năm 2005, đến nay nó đã
ngốn hết 100 tỷ USD tiền bán dầu của Venezuela, rất nhiều tiền trong số trên bị
lãng phí và tham nhũng. Các thể chế mới không đem lại điều gì ngoài việc đẻ ra
một loạt chức sắc bất tài do ông chỉ định. Ngoài ra Venezuela là nước bị thâm
thụt trong chi tiêu công rất cao, lên đến 12% GDP/năm tài khóa. Đồng tiền liên
tục phải phá giá làm cho cuộc sống người dân ngày càng khó khăn.
Tuy có bầu cử tự do, có nhiều
đảng phái tham gia nhưng với truyền thông khổng lồ do nhà nước nắm và các
chương trình xã hội có lợi cho dân nghèo, ông luôn đắc cử tổng thống trong các
cuộc bầu cử. Nhiều lãnh tụ đối lập bị ông tống giam với cáo buộc tham nhũng. Dù
có nhiều cuộc biểu tình phản đối, thậm chí đảo chính nhưng vẫn không làm lung
lay chiếc ghế quyền lực của ông. Ông đã tiếp tục vượt qua cuộc bầu cử Tổng
thống năm 2012 để đắc cử nhiệm kỳ thứ 3 liên tiếp và sẽ nắm quyền tới năm 2019,
mặc dù ông phát hiện bị bệnh ung thư phải điều trị trước đó và sức khỏe ngày
càng tồi tệ. Ông chết mà chưa kịp tuyên thệ nhận chức nhiệm kỳ mới vì sức khỏe
quá yếu, có lúc bị tê liệt nửa người. Khi ông chết, phó tổng thổng là người
cùng đảng đã lên tổng thống và đảng ông đã quyết định 7 ngày quốc tang và ướp
xác ông như những lãnh tụ: Lenin, Mao Trạch Đông, Kim Nhật Thành,…
Cuộc bầu cử đầy gay cấn trong năm 2012 tại thủ đô Caracas, Venezuela.
Trong khi các thành viên trong
đảng và chính phủ (đảng ông nắm phần lớn) bận rộn quốc tang, lên kế hoạch ướp
xác, đám đông người nghèo khóc thương và rầm rộ đi viếng thì những người trí
thức của đất nước có cái nhìn khác. “Chúng tôi không cực đoan tới mức nói rằng
ông ấy không làm được bất cứ điều gì, nhưng khi xem xét tất cả những vấn đề
trên tầm vĩ mô, anh sẽ thấy chúng tôi đang phải sống trong một tình trạng tồi
tệ”, Eduardo Perez, một luật sư 44 tuổi nói. Hay Oscar-nhà kinh tế 23 tuổi nói
rằng, anh coi Chavez, vị lãnh tụ của phần đông người dân Venezuela, về mặt
chính trị, chính là người đã phân tách đất nước ra làm nhiều mảnh.
Những bài học được rút ra:
Tổng thống Chavez chết, một số
tiếc thương, một số vui mừng nhưng ít người suy nghĩ, phân tích để rút ra bài
học từ cuộc đời, từ hành động của ông dù cuộc đời ông gây ra nhiều tranh cãi
tốt-xấu. Nếu chúng ta chịu khó rút ra các bài học từ thành công và thất bại của
các chính trị gia, chúng ta sẽ tránh được rất nhiều sai lầm, vì như Henry
Hazlitt, tác giả cuốn sách kinh tế kinh điển “hiểu kinh tế qua một bài học” đã
nói “rất nhiều sáng kiến hiện nay được mang ra thực hiện, thực chất là lặp lại
sai lầm của quá khứ”. Chúng ta thử rút ra một số bài học từ cuộc đời ông
:
Bài học về người hùng của dân
nghèo: Hugo Chavez đã thu phục được trái tim tầng lớp dân nghèo. Với tầng lớp
dân chúng thấp cổ bé họng này, bất cứ ai đứng ra cải thiện cuộc sống của họ dù
bằng cách nào (hợp lí hoặc ko hợp lí) đều là người hùng. Lịch sử thời đại phong
kiến cho ta nhiều người hùng như vậy, không ít quân vương xây dựng đế chế quyền
lực cho mình bằng những cuộc khởi nghĩa với khẩu hiệu cướp của người giàu chia
cho dân nghèo, thậm chí nếu một tên cướp nhưng hành động với khẩu hiệu đó cũng
được dân nghèo xem như người hùng. Họ đâu biết rằng con đường thoát nghèo đó
của họ sớm đi đến đường cụt như vinh quang của những anh hùng cướp của vậy. Số
phận của người nghèo chỉ được giải phóng đúng qui luật kinh tế chứ không bao
giờ qua người hùng như vậy được. Người hùng dân tộc phải là người hiểu biết,
mang lại nền chính trị dân chủ để phát triển kinh tế chứ không chỉ dùng quyền
lực để chia.
Điều này cũng cho thấy tại sao tư
tưởng XHCN có sức hấp dẫn ở các quốc gia nghèo, nơi có trình độ dân trí thấp.
Đáng buồn là nước VN ta nằm trong số đó ! Qua đây lý giải phần nào lý do
vì sao nhiều người còn say mê lý tưởng của Đảng, cho nó là tốt đẹp, chỉ người
thực hiện là sai. Họ cố đi tìm người có đạo đức để thực hiện, đâu biết rằng
CNXH đã sai về nguyên lý.
Chủ nghĩa xã hội tại sao hấp dẫn
dân nghèo và là tai họa cho dân nghèo đến thế ! Bí mật nào ở đây ? -
Bí mật là do cơ chế vận hành đã thỏa mãn lòng tham của tất cả các bên, hậu quả
thì cả xã hội chịu và người chịu nhiều nhất là ngườinghèo và vấn đề là ai cũng
nghĩ mình ko chịu, mình được lợi. Ta thấy người lãnh đạo làm cho cái bánh to
hơn, dù không công bằng nhưng mọi người được miếng lớn hơn thì khó, còn dùng
sức mạnh để cố chia đều cái bánh ngày càng nhỏ thì dễ hơn. Thật ra trong quá
trình chia đó người nghèo tưởng công bằng nhưng không, người cầm dao để cắt
chia luôn được miếng to hơn. Chỉ có điều người dân không thấy điều này.
Sự thiếu hiểu biết của con người rất nguy hiểm, có thể lôi nhau cùng xuống địa
ngục mà không biết.
Hugo cho ta thấy bí mật của những
tranh cãi quanh công tội của các chính trị gia theo chủ thuyết XHCN hoặc độc
tài :
Tất cả những chính trị gia theo
chủ thuyết CNXH đều để lại di sản tranh cãi vì sự mâu thuẫn giữa lý tưởng, chủ
trương tốt đẹp hướng đến người nghèo, hướng đến công bằng dân chủ với thực tế
trái ngược hoàn toàn.
Từ Đông sang Tây : Stalin, Mao
Trạch Đông, Kim Jong Il, Gaddafi, Mubarack,… tại sao khi một nhà độc tài chết
đi luôn có kẻ khóc, người mừng?
Tại sao khi một nhà độc tài tại
vị luôn có kẻ tung hô, người oán thán? Dù là một nhà độc tài khét tiếng thế nào
đi nữa, ông ta cũng không thể là kẻ hưởng thụ một mình, ông ta phải làm lợi cho
một nhóm người nào đó trong xã hội và gây thiệt hại cho phần còn lại. Nếu nắm
hệ thống truyền thông thì tay chân phe nhóm của lãnh tụ có thể dễ dàng cho thế
giới thấy lãnh tụ của họ được lòng dân thế nào ? Nhưng đó chỉ là một nửa
của sự thật.
Bài học về khủng hoảng và xử lý
khủng hoảng trong nền kinh tế: Venezuela từng có giai đoạn là nước có nền chính
trị dân chủ, nền kinh tế tự do, phát triển thịnh vượng. Tuy nhiên khi giá dầu
giảm trong thập niên 1980 đã gây ra khủng hoảng kinh tế. Chính cuộc khủng hoảng
này đã đưa Chavez lên nắm quyền để giúp đất nước thoát khỏi bế tắc theo hướng
kinh tế XHCN. Trong nền kinh tế tư nhân tự do (nhiều người còn gọi là nền kinh
tế tư bản chủ nghĩa) không tránh khỏi bị khủng hoảng. Nguyên nhân dẫn đến khủng
hoảng có rất nhiều nhưng chung qui lại là luật chế tài chưa đi kịp với nền kinh
tế: gian lận trong tín dụng, đầu cơ, lạm phát, sụp đổ thị trưởng chứng khoán,
độc quyền, lũng đoạn kinh tế, vay mượn quá mức,…..Khi khủng hoảng xảy ra thì
kinh tế suy thoái, xã hội rối loạn, đói nghèo, bất công,…thậm chí là chiến
tranh. Quan trọng là việc xử lý khủng hoảng, việc này có thể đưa đến sự phát
triển, củng cố nền dân chủ hoặc đưa đến độc tài toàn trị, kinh tế lâm vào khó
khăn ngày càng không có lối thoát.
Những năm 1997-1998 các nền kinh
tế mới nổi như Hàn Quốc, Đài Loan, Thái Lan,…lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng,
nhiều tổ hợp kinh tế lớn sụp đổ, để lại gánh nợ nần lên đến hàng chục tỷ đôla.
Điển hình như tập đoàn Deawoo Hàn Quốc, gánh nợ lên đến 75 tỷ USD, rất nhiều
trong số đó là kết quả của việc gian lận tài chính, chủ tịch tập đoàn là Kim Woo
Choong bỏ trốn. Xã hội rối loạn vì kinh tế khó khăn, nghèo đói. Tinh thần chống
tư bản, chống đối nhà giàu, chống đối bọn “bóc lột” lên rất cao. Tuy nhiên
chính phủ Hàn Quốc đã sáng suốt trong việc xử lý khủng hoảng. Một mặt chính phủ
đứng ra bảo lãnh các khoản nợ, hoặc hỗ trợ sát nhập để các công ty tiếp tục
hoạt động, một mặt hoàn thiện chế tài luật pháp. Điều quan trọng là HQ kiên trì
nền kinh tế tư nhân. Quá trình xử lý theo hướng này tốn rất nhiều thời gian,
kết quả chậm chạp, chịu nhiều sức ép từ công luận. Tuy nhiên chính điều này mà
ngày nay HQ có những thương hiệu toàn cầu như Samsung, Huyndai, LG,….cạnh tranh
sắc bén trên trị trường quốc tế (không biết điều gì sẽ xảy ra nếu HQ quốc hữu
hóa hết các tập đoàn này rồi giao cho quan chức điều hành?). Ngày nay HQ có nền
kinh tế năng động trong một nền dân chủ ngày càng hoàn thiện.
Rõ ràng, nếu Venezuela kiên trì
nền kinh tế tư nhân tự do, với nguồn tiền dồi dào thu được từ việc bán dầu mỏ,
chính phủ cho các công ty tư nhân vay để làm ăn (hoặc chi xây dựng đất nước
theo hướng tư nhân đấu thầu), đi đôi với việc hoàn thiện hệ thống luật pháp, có
lẽ Venezuela đã thịnh vượng.
Một hướng xử lý khủng hoảng khác
hay được các nước áp dụng đó là chính phủ tăng cường can thiệp thị trường để
nhanh chóng ổn định: quốc hữu hóa, xây dựng doanh nghiệp nhà nước, kiểm soát
giá theo lệnh hành chính, phân phối theo lệnh chính phủ, thực hiện kinh tế kế
hoạch hóa,… Cách này tất nhiên là có kết quả nhanh chóng, làm hài lòng quần
chúng trong trạng thái khó khăn do khủng hoảng, bị kích động chống người giàu,
chống bóc lột, chống tư bản.
Cách này còn được các quan chức
ưa chuộng vì được nhúng tay vào bầu sữa ngân sách, được điều khiển nền kinh tế
quốc dân trực tiếp, tất nhiên là kèm theo nhiều lợi lộc. Tuy nhiên cách này tất
yếu đưa đến “lợi ích nhóm”, hiệu quả kinh tế ngày càng kém, nền dân chủ bị xói
mòn, nạn tham nhũng bùng phát. Điều này xảy ra đúng qui luật kinh tế mà
Hayek đã nêu trong cuốn Đường Về Nô Lệ, nó chỉ cho ta thấy rõ là khi nhà nước
nắm kinh tế, lên kế hoạch hóa thì quyền lực tất yếu phải ngày càng tập trung
vào tay quan chức, truyền thông tuyên truyền phải hoạt động hết công sức, dối
trá, đàn áp là tất yếu và người dân sẽ trở thành nô lệ vì trong thể chế như vậy
chống lại chính quyền sẽ phải chết từ từ vì đói (vụ nhà báo Nguyễn Đắc Kiên bị
mất việc là một minh họa). Xã hội ngày càng đi vào suy thoái, chuyên chế, đói
nghèo, tham nhũng, bất công.
Nước ta có bài học to lớn từ việc
mất tự do kinh tế. Thời bao cấp, tự do kinh tế của người dân gần như số 0. Khi
đó dù có lương tri người ta cũng không dám lên tiếng, vì nhà cầm quyền chỉ cần
cắt phiếu gạo hay không cấp ruộng là nắm chắc chết đói, cả gia đình trở nên
khốn khổ. Văn nghệ sĩ, trí thức, nhà báo, nhà quay phim,….tất tần tật đều do
nhà nước bao cấp kinh tế, trong hoàn cảnh đó dù có khuyến khích phát biểu, cũng
không ai dám mở miệng nói điều khó nghe với chính quyền. Nhiều hội đoàn sinh ra
cũng chỉ để làm cảnh vì chẳng ai có động lực để đấu tranh.
Đây là một bài học vô cùng quí
báu cho VN ta hiện nay, chúng ta đang dần thoát khỏi chuyên chế độc đảng thì
gặp khủng hoảng, hiện nay nếu để chính phủ ngày càng can thiệp sâu vào thị
trường với mục tiêu ổn định, làm đẹp các chỉ số tăng trưởng. Các hành vi như
độc quyền nhà nước về vàng, khống chế ngân hàng, ổn định giá cả theo mệnh lệnh
hành chính (nhân danh bình ổn giá), can thiệp thị trường chứng khoán, tăng
cường chỉ đạo của chính phủ trong nền kinh tế, tăng cường đầu tư công để thay
thế tư nhân nhằm làm đẹp chỉ số tăng trưởng, tăng cường kiểm soát các mặt hàng
chiến lược như: xăng, dầu điện….
Chính phủ có xu hướng làm thay
thị trường thay vì hoàn thành các thiết chế luật pháp, hoàn thiện dân chủ để
kinh tế phục hồi, phát triển theo qui luật cạnh tranh của thị trường. Tùy theo
cách chúng ta xử lý khủng hoảng mà chúng ta thoát ra khỏi nạn chuyên chế, đi
đến dân chủ thịnh vượng hay quay lại chốn cũ.
Kinh tế thị trường là một hệ
thống tự động, nó chỉ hoạt động tốt nhất trong thể chế dân chủ, nếu chúng ta ra
sức can thiệp dù với mong muốn xã hội tốt hơn thì mọi chuyện lại trở nên tồi tệ
hơn.
Cuộc đời Hugo Chavez để lại cho
ta bài học đáng suy ngẫm về mối quan hệ giữa hai loại người trong xã hội: người
giàu và người nghèo. Đây là mối quan hệ đầy sóng gió bao đời nay của nhân loại.
Dù dân tộc nào, thời đại nào, xã hội nào, người giàu và người nghèo chưa bao
giờ sống chung hòa hợp với nhau. Nguồn cơn cho mối quan hệ sóng gió đó là sự
hiểu lầm tai hại. Lớp người nghèo đã cho rằng chính người giàu là nguyên nhân
cho sự khốn khó của họ, chính người giàu tham lam đã bóc lột họ, làm cho họ
nghèo khó. Sự hiểu lầm đó được nâng lên thành chủ thuyết đấu tranh của “thiên
tài” Karl Marx, từ đây lịch sử nhân loại đã có một chương bi thảm với tên gọi
đấu tranh giai cấp. Kết quả làm hàng trăm triệu nhân mạng ngã xuống trong khốn
cùng oan ức nhưng lại không giải quyết được vấn đề gì cả.
Người ta đâu biết rằng, vấn đề
người giàu và người nghèo là một vấn đề tất yếu như một đoàn tàu, luôn có đầu
máy, toa đi đầu và những toa cuối cùng. Vấn đề là làm sao cho cả đoàn tàu chạy,
dù là toa đi sau nhưng cũng tiến lên chứ không phải làm cho các toa bằng nhau
rồi chết dí một chỗ. Thật ra trong quá trình làm giàu, người giàu bằng tài năng
của mình đã phụng sự xã hội, người tài người giỏi xứng đáng được hưởng cuộc
sống tốt hơn. Một thiên tài Bill Gates giúp ích cho xã hội rất lớn, ông hoàn
toàn xứng đáng ở trong căn biệt thự 100 triệu đô với tiện nghi làm cho cuộc
sống thoải mái nhất. Trong nền kinh tế tự do cạnh tranh khốc liệt, tài sản
người giàu không phải là tiền hay vàng tích trữ trong két mà nó được phân bố
dưới các cơ xưởng sản xuất, kinh doanh, mang lại công ăn việc làm cho người lao
động, mang lại sản phẩm ngày càng tốt hơn cho người tiêu dùng. Đâu đó người
giàu trục lợi xã hội, làm tổn thương người nghèo là do sự thất bại của luật
pháp, thất bại của thể chế, trong những thể chế không dân chủ thì vấn nạn này
càng lớn. Do vậy để giải quyết vấn nạn mâu thuẫn giữa người giàu và người nghèo
trong xã hội, không thể bằng cách đấu tranh tiêu diệt người giàu (đấu tranh
giai cấp), tuyên truyền lòng căm thù, kỳ thị người giàu như cách Chavez, (ông
là người lên án người giàu, lên án Mỹ với lời lẽ mạnh mẽ nhất-chính điều này
làm cho người nghèo hả hê). Mà giải pháp là xây dựng thể chế dân chủ với nền
kinh tế tự do, luật pháp hoàn thiện, nghiêm minh.
Hugo cho ta thấy lợi ích nhóm
hình thành và phát triển như thế nào trong sinh hoạt chính trị: Cái gì làm con
người có động lực để tranh giành nhau dữ dội nhất? Đó là quyền lợi, là miếng
ăn, là bổng lộc. Nếu chính quyền không có khả năng ban phát những thứ đó thì
con người chẳng tranh giành quyền lực làm gì.
Hugo Chavez đã tạo ra một lợi ích
nhóm từ việc giao cho các thân tín điều khiển các công ty nhà nước. Rõ ràng
chính sách kinh tế XHCN tất yếu dẫn đến “lợi ích nhóm” quây quanh chính phủ. Ở
đâu có mật thì ở đó có ruồi, ở đâu có ban phát quyền lợi thì sẽ có xu nịnh quây
quanh. Nếu không nắm quyền điều khiển các công ty quốc doanh thì Hugo Chavez
cũng chỉ là một tổng thống chấp pháp bình thường. Để có thể duy trì được lợi
ích của mình thì “nhóm lợi ích” bắt buộc phải tiếp tục con đường của ông, phát
huy di sản ông để lại, do vậy không có gì khó hiểu khi hiện nay nhóm cầm quyền
ở đây ra sức ca ngợi ông như một anh hùng, một vị thánh và họ đã quyết định ướp
xác ông, biến ông thành một tượng đài bất tử như bao lãnh tụ vô sản khác.
Hiện nay, các lãnh đạo cấp cao
hay đề cập đến “lợi ích nhóm” lũng đoạn, tàn phá đất nước nhưng chưa thấy việc
chỉ ra “lợi ích nhóm” nó đến từ đâu, cơ chế hoạt động ra sao và tồn tại thế
nào? Rõ ràng cái “lợi ích nhóm” nó được sinh ra từ cái đuôi định hướng XHCN mà
nền kinh tế nước ta đang vận hành. Chính việc giao cho quan chức có quyền điều
khiển việc kinh doanh, chính việc chi tiêu công là cái gốc của việc hình thành
nên “lợi ích nhóm”. Chính việc chúng ta để các bộ quyền lực như quốc phòng,
công an đi kinh doanh, nắm các công ty, các tập đoàn kinh tế đã tạo nên “lợi
ích nhóm”. Chúng ta cần dứt khoát phá bỏ quyền điều khiển đồng tiền của quan
chức, thực hiện nền kinh tế tự do thì mới giải quyết được “lợi ích nhóm”, cách
giải quyết từ giáo dục đạo đức HCM cho cán bộ lãnh đạo là không bao giờ thành
công.
Hugo cho ta thấy thế nào là một
nền dân chủ trọn vẹn. Trên website bộ ngoại giao Hoa Kỳ trong phần định nghĩa
về dân chủ có liệt kê Venezuela là một nước dân chủ. Nhiều người lâu nay cho
rằng dân chủ là phải đa đảng, phải có bầu cử tự do, có báo chí tư nhân,….Tuy
nhiên điều đó vẫn chưa làm nên nền dân chủ trọn vẹn. Nền dân chủ chỉ trọn vẹn
khi các điều trên kết hợp với nền kinh tế tư nhân. Chính nền kinh tế tư nhân là
cái gốc của nền dân chủ. Các nước như Ấn Độ (trước cải cách kinh tế) hay Nga dù
có được bầu cử tự do nhưng nền dân chủ không trọn vẹn do nhà nước chi phối nền
kinh tế (kinh tế nhà nước có tỷ lệ cao) nên vẫn không giàu có, thịnh vượng.
Nhiều lực lượng đấu tranh cho dân chủ ở nước ta chú trọng đến tự do trong bầu
cử mà quên đi tranh đấu cho nền kinh tế tư nhân, điều này thật là thiếu sót.
Hugo cho ta bài học là làm thế
nào một nền độc tài chuyên chế có thể nảy nở trên nền xã hội dân chủ? Đó là con
đường chính phủ thâu tóm kinh tế thông qua chính sách quốc hữu hóa, can thiệp
giá cả. Bài học này đã được Hitler sử dụng để thâu tóm quyền lực nước Đức, biến
nước Đức thành một đế chế chuyên chế Phát xít đáng sợ, mặc dù Hitler là chính
trị gia lên nắm quyền qua bầu cử dân chủ và khi đó nước Đức có bản hiến pháp
rất dân chủ. Bài học cho ta thấy là một bản hiến pháp đẹp chưa có gì để bảo đảm
cho nền dân chủ cả; khi nắm quyền chuyên chế thì người ta có thể tảng lờ, bóp
méo hoặc sửa lại hiến pháp. Cuối cùng vẫn là kinh tế tự do mới là nền tảng của
dân chủ.
Trong một nền dân chủ, để tránh
giới chính trị thâu tóm quyền lực, nảy nở độc tài thì người dân phải chặn sự
thâu tóm kinh tế. Sự thâu tóm bắt đầu bằng hành động can thiệp giá cả, quốc hữu
hóa, tăng đầu tư công, thành lập doanh nghiệp nhà nước, tăng trợ cấp.
Hugo cũng cho ta thấy rằng kinh
tế và chính trị như hai đường ray nâng đỡ con tàu xã hội, nó phải luôn đi đôi
với nhau. Kinh tế tự do (tư nhân) thì đi với đường ray chính trị dân chủ pháp
quyền. Kinh tế nhà nước thì tất yếu đi với đường ray chính trị mất dân chủ,
chuyên quyền. Đây là qui luật tất yếu, nếu ta thay một trong hai thanh ray thì
thanh kia tất yếu phải đến để hệ thống có thể hoạt động được.
Hiện tượng phát sinh độc tài
trong một đất nước có nền dân chủ vững chắc, có hiến pháp đa nguyên, có nhiều
đảng phái hoạt động, có bầu cử tự do,….cho ta nhiều bài học sâu sắc cần rút ra
cho đất nước. Bài học ta có thể rút ra ở đây là với quyền lực chính trị được
giao, nếu để chính quyền thâu tóm nền kinh tế thì sẽ tạo nên siêu quyền lực và
tạo nên mầm móng của độc tài. Tôi không biết lý do vì sao những người lập pháp,
những nhà chính trị điều hành đất nước lại giao quá nhiều quyền lực vào tay thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng đến vậy. Ông vừa là người hành pháp, vừa là người nắm
hàng ngàn công ty xí nghiệp nhà nước, nắm các mặt hàng thiết yếu của cả xã hội
như điện, nước, xăng, dầu, viễn thông, ngân hàng,….. Ông vừa có quyền ký phong
tướng tá cho các bộ quyền lực như công an, quân đội; vừa có quyền ban phát bổng
lộc cho thuộc cấp thông qua các công ty quốc doanh. Chính điều này đã tạo nên
một thủ tướng siêu quyền lực chưa từng thấy ở Việt Nam.
Hugo cho ta thấy một vấn đề của
thời đại chúng ta, thời đại của chính trị phổ thông đầu phiếu. Quyền lực chính
trị và ý chí người dân được xây dựng qua những phiếu bầu, đây là hình thức dân
chủ trong sinh hoạt chính trị mà con người phải tốn nhiều công sức, xương máu
mới có được. Nhiều người cho rằng đây là hình thức tối ưu để biết ý nguyện
người dân và cuối cùng đưa đến quốc thái dân an, thịnh vượng. Tuy nhiên nếu
phân tích kỹ và quan sát từ Venezuela ta thấy cơ chế này có một điểm yếu chết
người. Trong việc phổ thông đầu phiếu thì lá phiếu của một gã ăn mày có quyền
lực như nhau với một lá phiếu của một chuyên gia. Đây là một việc nguy hiểm, vì
như nhà bác học thiên tài Einstein đã nói “không thể chống lại được thế lực của
kẻ ngu, vì chúng quá đông”. Chúng ta tin tưởng vào sự sáng suốt của số đông.
Tuy nhiên trong một xã hội, người u tối, thiếu hiểu biết luôn nhiều hơn người
hiểu biết và điều đặc biệt là trong đám đông nghèo khó thì họ sẽ ủng hộ bất cứ
chính trị gia nào hứa cải thiện cuộc sống cho họ dù cải thiện bằng con đường
nào thì họ ít quan tâm hay không hiểu qui luật kinh tế thị trường. Vấn nạn này
đang xảy ra khắp nơi, ở cả các xứ dân chủ cao như Mỹ, Pháp hay Thái Lan. Nhiều
cư tri Pháp, Mỹ đã bầu cho tổng thống vì ông hứa tăng trợ cấp phúc lợi xã hội,
tăng chi tiêu công, làm cho chỉ số thất nghiệp, tăng trưởng đẹp. Nhiều nông dân
Thái đã bỏ phiếu để bầu cho bà thủ tưởng trẻ Yingluck Shinawatra vì lời hứa
tăng giá gạo 20% từ tiền ngân sách,…..ít ai biết rằng chính phủ chỉ có thể lấy
tiền ngân sách hoặc vay mượn để thỏa mãn các đòi hỏi đó của cử tri và sớm muộn
gì nợ công và sụp đổ kinh tế là điều tất yếu. Tôi cho rằng đây là một vấn nạn
của thời đại, nếu con người không tìm ra giải pháp cho vấn đề này thì khủng
hoảng kinh tế vì nợ công, lạm phát và vấn nạn chính mị dân sẽ tàn phá sự ổn
định, thịnh vượng của nhân loại. Đặc biệt nếu kinh tế sụp đổ trên diện rộng thì
sẽ xuất hiện chuyên chế độc tài như cuộc đại khủng hoảng 1930 (vì khi khủng
hoảng, xã hội có xu hướng ủng hộ quyền lực, ủng hộ sự kiểm soát kinh tế của nhà
nước để mau chóng vãn hồi trật tự như những bài học khủng hoảng trước).
Chúng ta thấy rằng trong nền chính trị hiện đại việc hạn chế quyền bầu cử là không thể được. Do vậy chỉ còn cách là phải nâng cao hiểu biết của dân chúng, đặc biệt là kiến thức về kinh tế. Dân chúng rất ít người hiểu biết thấu đáo về tự do kinh tế, về kinh tế thị trường, về giá cả và lợi nhuận. Công chúng có xu hướng bài xích lợi nhuận, dìm giá hàng hóa. Ủng hộ chính phủ can thiệp vào thị trường, nhất là vấn đề giá cả, ủng hộ không giới hạn lý tưởng nhà nước phúc lợi, ủng hộ đầu tư, chi tiêu công. Đây rõ ràng là những nguy cơ dẫn đến thâu tóm kinh tế của quyền lực chính trị. Một khi kinh tế bị thâu tóm thì tự do sẽ bị cầm tù. Tự do kinh tế là mạch máu của các loại tự do.
Chúng ta thấy rằng trong nền chính trị hiện đại việc hạn chế quyền bầu cử là không thể được. Do vậy chỉ còn cách là phải nâng cao hiểu biết của dân chúng, đặc biệt là kiến thức về kinh tế. Dân chúng rất ít người hiểu biết thấu đáo về tự do kinh tế, về kinh tế thị trường, về giá cả và lợi nhuận. Công chúng có xu hướng bài xích lợi nhuận, dìm giá hàng hóa. Ủng hộ chính phủ can thiệp vào thị trường, nhất là vấn đề giá cả, ủng hộ không giới hạn lý tưởng nhà nước phúc lợi, ủng hộ đầu tư, chi tiêu công. Đây rõ ràng là những nguy cơ dẫn đến thâu tóm kinh tế của quyền lực chính trị. Một khi kinh tế bị thâu tóm thì tự do sẽ bị cầm tù. Tự do kinh tế là mạch máu của các loại tự do.
Nếu ai đã nghiên cứu về cuộc đời
và tư tưởng của Hayek, đều biết rằng ông là một chiến sĩ đấu tranh âm thầm để
bảo vệ nền tự do đích thực. Ông đã cứu nền văn minh châu Âu không bị lạc lối
vào chuyên chế. Ông đã viết cuốn “đường về nô lệ”, một cuốn sách có tiếng vang
lớn ở Mỹ và châu Âu để cảnh báo nạn thâu tóm kinh tế của nhà nước. Ông đã thành
lập hội Mont Pelerin ở châu Âu, giúp thành lập một câu lạc bộ tự do kinh tế ở
Anh, giao lưu với trường phái kinh tế tự do ở Mỹ. Chính tư tưởng của ông đã tạo
nền tảng hiểu biết về tự do kinh tế cho phương Tây và giúp họ thay đổi đường
lối kinh tế bao cấp sau thế chiến 2. Hai chính trị gia huyền thoại là bà đầm
thép Margaret Thatcher-thủ tướng nước Anh-đã bẻ lái con tàu kinh tế nước Anh để
đoạn tuyệt với chủ nghĩa xã hội Fabian, và tổng thống nước Mỹ Ronald Reagan đã
tìm lại nền kinh tế tự do đích thực cho nước Mỹ cũng là nhờ hấp thu tư tưởng
của Hayek. Hayek có vai trò lớn đến mức nhiều người cho rằng thế kỷ 20 là thế
kỷ của ông. (Tham khảo sách Friedrich Hayek – Cuộc đời và sự nghiệp)
Việt Nam chúng ta học được gì từ
vấn đề này? Rõ ràng tư tưởng là nền tảng của xã hội, tư tưởng đúng thì xã hội
phát triển, tư tưởng sai thì xã hội lẩn quẩn, bế tắc. Để có thể kiến tạo nền
dân chủ vững chắc, chúng ta cần phải có nền kinh tế tự do. Để có nền kinh tế tự
do thì dân chúng phải hiểu biết rõ về nó. Nếu chúng ta chỉ đấu tranh để hướng
đến tự do chính trị thôi thì không đủ (Ấn Độ có trên 50 năm chính trị tự do,
nhưng nền kinh tế theo chủ thuyết xã hội Fabian nên bế tắc, lẩn quẩn). Tôi rất
lo lắng khi biết rất nhiều nhà đấu tranh dân chủ lại cổ xúy cho mô hình doanh
nghiệp nhà nước. Họ cho rằng nó phụng sự xã hội mà không có lòng tham lợi nhuận
để bóc lột, vấn đề là cần quan chức có tâm, có đạo đức tốt điều hành. Hay khi
hỏi 100 người dân thì có đến quá nửa nghĩ xấu về doanh nghiệp tư nhân và có
thiện cảm với doanh nghiệp nhà nước. Để giải quyết vấn đề này, chúng ta thành
lập một viện tự do kinh tế (qui mô học thuật) để truyền bá hiểu biết về kinh tế
thị trường, về hệ thống giá, về lợi nhuận, cung cầu, về quản lý nhà nước trong
nền kinh tế tự do,….Tôi cho rằng đây là vấn đề khai trí vững chắc như Fukuzawa
Yukichi đã làm với nước Nhật. Suy cho cùng một đất nước chỉ giàu khi kinh tế
mạnh. Kinh tế đúng thì mọi điều còn lại phải đúng theo. Tất cả mọi thiết chế
quyền lực chính trị cũng nhằm mục đích là để việc làm ăn thuận lợị. (các bạn
cùng quan điểm vui lòng liên hệ thanhhemo@gmail.com)
Hugo Chavez cho ta bài học về vấn
đề liên minh quốc tế. Khi ông thực hiện các biện pháp kinh tế phi thị trường
như quốc hữu hóa, kiểm soát giá cả, ….làm cho các nước có nền kinh tế tự do như
Mỹ, Châu Âu, Nhật, ….không thể làm ăn và cũng không thể làm bạn được. Tất yếu
Venezuale phải làm bạn với các nước có nền kinh tế phi thị trường và nền chính
trị mất dân chủ như: Triều Tiên, Cuba, Libi (thời Gaddafi), Iran, Trung
Quốc,….Trong cuộc sống, con người kết bạn với nhau cũng là nhằm để làm ăn tốt
hơn, trên thế giới các quốc gia liên minh với nhau cũng vì quyền lợi. Khi lợi
ích khác nhau, không hợp tác được thì hết là bạn của nhau. Đây cũng là lý do vì
sao các nước có nền chính trị phi dân chủ, nền kinh tế phi thị trường thường là
đồng minh của nhau. Ngoài ra để có sự ủng hộ của dân chúng, lãnh đạo những nước
này thường lên gân chống Mỹ nhất, họ khai thác những cái gì xấu xa từ xã hội
Mỹ, từ nền kinh tế tự do để cho rằng đường mình đi là văn minh, là hiện đại, là
tất yếu của nhân loại. Mặt khác để lời lên án có tính tuyên truyền cao, họ ra
sức bưng bít thông tin, cấm đoán mạng internet. Đây cũng là bài học cho Việt
Nam, nếu chúng ta không tăng cường cải cách kinh tế tự do, chính trị dân chủ
thì chúng ta sẽ đứng trong nhóm bạn có thuộc tính còn lại của thế giới và đói
nghèo là tất yếu.
Sức mạnh của Hugo Chavez dựa trên
nguồn dầu dồi dào của đất nước, bằng cách bán dầu giá rẻ hay viện trợ cho các
nước nghèo, chính quyền chuyên chế như Cuba, ông đã chinh phục được họ, ông
nhận được từ họ sự tung hô (Rõ ràng anh có tiền, anh ban phát kinh tế thì anh
chinh phục được khối người). Và ông là một bài học cho thực trạng vung vãi lợi
ích quốc gia để mua đồng minh ở các nhà lãnh đạo, điều này rất dễ xảy ra nếu
quyền lực không được kiểm soát hoặc lãnh tụ thâu tóm cả hai quyền lực chính trị
và kinh tế. Khi quốc dân không kiểm soát được quyền lực nguyên thủ thì họ hoàn
toàn có thể vung vít quyền lợi đất nước để mua chuộc đồng minh. Việc này giải
thích tại sao các vị tổng bí thư nước ta có thể mang vài ngàn tấn gạo cho tặng
đồng minh mà không cần sự biểu quyết của quốc hội, trong khi bao con em chúng
ta còn phải bẫy chuột để ăn vì đói. Đồng bào các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An còn
nạn đói hoàng hành.
Hugo để lại cho ta bài học về vai
trò đích thực của người lãnh đạo.
Người lãnh đạo muốn đi vào hàng
vĩ nhân của dân tộc như Washington phải là người kiến tạo ra xã hội vận hành
trên những nguyên lý đúng. Dù chưa hoàn hảo nhưng nó vẫn vận hành tốt khi họ
chết để hướng đến xã hội văn minh chứ không phải là người dùng uy tín, ảnh hưởng,
đạo đức của mình để vận hành xã hội, để rồi khi mình chết đi để lại một xã hội
bệ rạc, lộn xộn và mất phương hướng. Một nhà lãnh đạo giỏi là phải thiết lập
được một thiết chế dân chủ bền vững để quốc gia vẫn phát triển ngay cả khi mình
qua đời chứ không phải là sự tung hô đương thời.
Đám đông, nhân dân có thể bị lừa
dối, bị làm mờ mắt trong các lợi lộc trước mắt. Tuy nhiên theo thời gian, chỉ
có lãnh đạo nào đem lại sự thịnh vượng, sự phát triển đích thực cho dân tộc mới
được ngưỡng mộ, kính trọng. Các chiêu thức tuyên truyền, các hình thức “công
bằng” màu mè rồi cũng đi vào sọt rác của lịch sử. Một đất nước không bao giờ có
phúc nếu chỉ có ngày càng “công bằng” trong nghèo khó hơn và dân chủ mất dần.
Làm chính trị không chỉ lòng
nhiệt tình, trái tim quả cảm, yêu thương người nghèo. Điều đó là chưa đủ, nó
còn đòi hỏi sự hiểu biết thấu đáo vấn đề như một nhà khoa học. Như nhà khoa học
phải hiểu các thuộc tính của vật chất, nhà chính trị phải hiểu xã hội, phải
biết các thuộc tính của con người; phải hiểu kinh tế thị trường và các thuộc
tính của nó. Nếu thiếu hiểu biết hai lĩnh vực trên mà nhiệt tình thì cuối cùng
chỉ có phá hoại.
Hiện nay người có lòng nhiệt tình
ái quốc và có hiểu biết căn bản các qui luật của xã hội, của nền kinh tế không
phải là nhiều. Một người trong số đó là doanh nhân Trần Huỳnh Duy Thức, anh đã
cảnh báo khủng hoảng kinh tế cách đây 5-6 năm khi mà xã hội đang thời kỳ hoàng
kim. Anh không phải cảnh báo mò mẫn, các bài viết của anh có tính logic của qui
luật dẫn đến sự tất yếu. Đáng tiếc là đất nước ta không sử dụng được người tài
như anh. Nghiệt ngã hơn nữa là anh và bạn hữu (anh Long, anh Định) phải ngồi tù
vì những cảnh báo của mình. Để có thể dẫn dắt xã hội tiến lên, chúng ta rất cần
những người am hiểu xã hội, am hiểu kinh tế, do vậy việc vận động, kêu gọi trả
tự do cho anh Thức lúc này là rất quan trọng.
Hugo Chavez để lại cho ta một bài
học để trả lời câu hỏi “thế nào là một nền chính trị thực, thế nào là một nền
chính trị mị dân”. Chính trị thực tuy nó không đẹp, không lý tưởng bằng chính
trị mị dân nhưng nó mang lại điều tốt đẹp cho quốc dân trong tương lai, nó
hướng đến công bằng, dân chủ gần với hiện thực cuộc sống. Chính trị mị dân rất
đẹp, làm say lòng người vì lý tưởng, vì lời hứa nhưng về lâu dài nó lại hại
nước, hại dân.
Trong nền chính trị mị dân, chính
trị gia hay dùng truyền thông nhấn mạnh thành tích ngắn hạn để đánh bóng tên
tuổi, chạy theo bề nổi hơn là thực chất. Và trong nền chính trị mị dân, chính
trị gia hay hướng đến bênh vực đối tượng nghèo khó bất chất qui luật kinh tế để
dành sự ủng hộ cử tri (vì số này đông) hơn là có giải pháp thấu đáo cho cả xã
hội. (Thái Lan là một bài học khi nước này mất hàng tỷ đôla trợ giá gạo cho
nông dân, làm rối loạn nền sản xuất lúa gạo trong tương lai).
Venezuela cho ta bài học đáng suy
ngẫm về sự mất cân đối nghiêm trọng giữa đô thị và nông thôn
Venezuela là một quốc gia có sự
mất cân bằng nghiêm trọng giữa thành thị và nông thôn. Với sự đầu tư của chính
phủ tập trung vào các đô thị, làm nơi đây phát triển, có công ăn việc làm nên
đã thu hút dân nông thôn đồ về đô thị. Đô thị có hạ tầng dịch vụ về giáo dục, y
tế, đường xá tốt hơn hẳn nông thôn nên có mức sống cao hơn, ai cũng muốn về đây
để sống. Với nguồn tiền do chính phủ chi thì những quan chức ở gần thủ đô tạo
mối quan hệ tốt hơn nên được đầu tư nhiều hơn. Và nguồn tiền đầu tư từ chính
phủ thì ít tính đến yếu tố thu hồi vốn, do vậy nó được chi ở nơi có khả năng
lên dự án hợp lòng lãnh đạo nhất, bất chất chi phí là bao nhiêu và hiệu quả
kinh tế như thế nào. Ngoài Venezuela, ở các nước có sự chi phối đầu tư từ tiền
chính phủ đều có sự mất căn bằng giống như vậy, điển hình là Trung Quốc, Việt
Nam,…Đặc biệt một quốc gia nghèo như Triều Tiên cũng có thủ đô Bình
Nhưỡng với nhà cao tầng, công viên, tàu điện ngầm,….rất hiện đại nhưng phần còn
lại của đất nước gần như không có gì.
Hàng ngày, thấy hàng triệu người
ở hai thành lớn là Hà Nội và Tp Hồ Chí Minh vật vã giữa lòng đường trong giờ
cao điểm để nhích từng xí một, nhiều em nhỏ vẻ mặt bơ phờ mệt mỏi trong cái
nắng, cái bụi hoặc trong cơn mưa, tôi tự nghĩ, tại sao cuộc sống con người nơi
đây khổ thế? Tại sao họ lại bám vào cái thành phố để sống trong cảnh mệt
mỏi thế này? Và tôi biết họ phải bám vào nơi đây để sống vì về quê không có
việc gì để làm. Mặc khác ở TP thì được nhà nước đầu tư những công trình phúc
lợi như bệnh viện, công viên, trường học ,…tốt hơn nông thôn nên khi đau yếu,
học hành cũng tiện lợi hơn, do vậy dân thích sống ở đây hơn. Tắc đường buộc
chính phủ phải đầu tư nhiều tiền để mở đường, để xây cầu. Một lượng tiền rất lớn
đổ vào công trình hạ tầng, có những đoạn đường dài chỉ gần 1km tiêu tốn gần ngàn tỷ đồng. Chính điều này làm cho cạn kiệt
nguồn vốn đầu tư nơi khác, mặc khác ở Hà Nội có công ăn việc làm nên thu hút
dân tỉnh lẻ lên. Chưa nói là nhiều công trình chưa cần thiết nhưng do gần trung
ương nên dễ dàng được duyệt, như câu chuyện sửa sang vỉa hè (vỉa hè thành phố
thì nay sửa, mai thay mới trong khi một cây cầu cho con em ở vùng xa thì không
xây). Dân bị hút lên thành phố để sống, để tìm việc làm lại gây tắt đường, nhà
nước lại phải đầu tư. Cái vòng tròn lẩn quẩn này làm cho các đô thị lớn phình
ra và chật cứng, trong khi các nơi khác thì không có cơ sở làm ăn, nguồn tiền
không có để đầu tư và lợi thế kinh tế nhờ số đông không thể hình thành ở nông
thôn. Rõ ràng nếu tư bản di chuyển tự do trong tay tư nhân thì sẽ không đầu tư
một lượng tiền lớn vào những nơi như vậy, dòng tiền sẽ phân tán, đi về những
nơi có khả năng tạo ra lợi nhuận cao hơn.
Đồng ý rằng, nước nào công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đều xảy ra quá trình đô thị hóa, bị nạn mất cân bằng giữa đô
thị và nông thôn. Tuy nhiên để đến mức quá lớn như ở nước ta còn có nguyên nhân
là dòng tiền do nhà nước kiểm soát. Nhà nước đã điều một dòng tiền cực lớn
trong xã hội bất chấp hiệu quả đồng vốn và kéo theo nhiều hệ quả.
Quyền lực chính trị tác động đến
kinh tế làm cho nó hoạt động bất chấp qui luật thị trường sẽ tạo ra nhiều hệ
quả to lớn cho xã hội. Khi xưa quyền lực chính trị kết hợp với tem phiếu (kinh
tế bao cấp) đã đẩy hàng triệu người dân phải rời bỏ thành phố để đi đến nông
thôn, vùng sâu, vùng xa theo chương trình kinh tế mới (nếu không đi thì nhà
nước không cấp phiếu gạo, đói thì phải đi), hoặc bất chấp sóng dữ để vượt biên.
Ngày nay quyền lực chính trị kết hợp với nguồn tiền ngân sách nhà nước đã làm
cho các đô thị phình to trong chật chội, tắt đường kinh niên; trong khi nông
thôn thì xác xơ.
Rõ ràng trong nền kinh tế XHCN
với đặc điểm là sự đầu tư lớn từ nhà nước và một tỷ trọng lớn doanh nghiệp quốc
doanh không chỉ gây ra hậu họa “lợi ích nhóm”, tham nhũng, bè phái, chính trị
mất dân chủ mà còn là nguyên nhân gây ra sự mất căn bằng nghiêm trọng giữa đô
thị và nông thôn. Điều này là mệt mỏi cho tất cả chúng ta.
Kết thúc:
Tôi viết bài này một phần để
tưởng nhớ đến ông Hugo Chavez như một con người giàu nhiệt huyết muốn đất nước
Venezuela công bằng và giàu có nhưng ông đã thất bại và để lại di sản nặng nề
cho đất nước là kinh tế yếu kém, tệ tham nhũng và lợi ích nhóm khổng lồ thao
túng quốc gia; và đồng thời cũng là lời nhắn gửi đến tất cả những người lãnh
đạo là hãy hiểu cuộc sống, hãy hiểu kinh tế để có thể mang lại điều tốt đẹp cho
nhân dân, cho đất nước, lòng nhiệt huyết không là chưa đủ.
Và lời cuối cùng tôi muốn nhắn
gửi đến tất cả chúng ta là “kinh tế tự do là cái nền cho mọi sự tốt đẹp, kinh
tế nhà nước là cái gốc mọi sự tồi bại trong xã hội ”.
Nguyễn Văn Thạnh
http://muoisau.wordpress.com/2013/03/17/ke-khoc-nguoi-mung-nguyen-van-thanh/
Ai cũng phải chết : đó là sự thật đau lòng, nhưng nó lại đúng quy luật của thiên nhiên : cái củ mất đi để cái mới sinh ra.
ReplyDeleteNhưng có người khi chết đi họ để lại những cái giá trị cho xã hội và cho con cháu của họ, có người thì ngay chính cả con cháu của họ cũng mừng, con cháu mừng vì đã mất đi một người ăn bám vào xã hội(những người hưu trí thì không tính vì họ xứng đáng được hưởng vì những cống hiến của họ cho xã hội), mừng vì mất đi một người sống chỉ làm ô danh dòng họ. Tôi đơn cử như Tổng Trọng mà mất đi sẽ có nhiều người vui mừng, vì ông ta chẳng làm gì được cho đất nước mà ông ta lại còn tham ăn hốt uống trước khi nghỉ hưu nữa chứ. Tôi là dòng họ Nguyễn Phú Trọng tôi sẽ đổi họ ngay và xin làm từ thiệt tất cả số tiền mà ông ta tham ăn mà có, vì tôi là người tự tin vào năng lực của mình, mà chẳng cần ăn bám lấy ai.
Một nền Kinh tế thị trường hiệu quả thường được dẫn dắt bởi sự nhận thức chân giá trị của tự do và dân chủ, nhưng để hiểu và nhầm lẫm như ai đấy cho rằng chúng ta dân chủ gấp vạn lần bọn tư bổn thì đất nước này còn nhiều lắm hệ lụy và bất công . .
ReplyDeleteRất đồng tình với comments của nặc danh. Nhưng đất nước ta như thế, lãnh đạo ta như thế, biết sao hơn. Chỉ tội cho những người như Phượng Bích. Hehe.
ReplyDeleteTội cho những người như Phương Bích? Vậy chắc không tội cho Phan Phu Yen? Phan Phú Yên người nước nào vậy?
Deletehttp://www.vietnamplus.vn/Home/Venezuela-Ong-Maduro-bo-xa-ung-cu-vien-doi-lap/20133/189623.vnplus
ReplyDelete