Translate

Saturday, 26 July 2014

Di chúc Bắc Kỳ tự do

Ông quả là người có cả tài lẫn tâm. Hẳn nhiều trang đã đăng tải bài viết này của ông, nhưng nhà em vẫn muốn đem về nhà mình để lưu giữ. - Đọc xong thấy rưng rưng nước mắt.


Cho C. và những người bạn đất Bắc của tôi

Câu chuyện kỷ niệm 60 năm về hành trình đến miền Nam của hơn một triệu người trôi qua lặng lẽ. 20 tháng 7, 1954 trở thành lịch sử thế giới, nhưng chưa bao giờ đủ với những câu chuyện kể về số phận và suy nghĩ của riêng người Việt. Tôi chờ đọc một áng văn nào đó, nói về suy nghĩ của những người miền Nam khi nhìn thấy dòng người Bắc Kỳ này, khi họ đến đồng bằng, chảy về thành phố, nhưng không thấy. Tràn ngập những bài viết chỉ là nỗi nhớ tha hương, là ký ức và lòng kiêu hãnh của những người tìm tự do từ phía Bắc. Vì vậy, tôi muốn ghi ra chút ít ở đây, về cái nhìn của một người miền Nam, về cha mẹ, ông bà của bạn bè Bắc Kỳ, dù họ còn hay đã mất.


Hai tiếng “Bắc Kỳ” xuất hiện trên miệng trẻ con miền Nam, và cả của tôi, suốt một thời gian dài, chỉ là sự trêu chọc ban bè cùng lứa, vì một kiểu ngữ âm rất khác mình. “Bắc Kỳ” trong ký ức từng là một tâm cảm bị ám thị, thiếu thiện cảm hơn cả khi so sánh với “Ba Tàu”. Chỉ khi tạm đủ chữ trong đầu, biết thêm về đất nước này, hai chữ “Bắc Kỳ” trong tôi mới thật sự thay đổi. Có lẽ cũng giống như tôi, nhiều người miền Nam hời hợt kỳ thị đã tự làm cho mình bớt xấu hổ bằng cách lập ra những hạng mục khác như Bắc kỳ 9 nút (54), Bắc kỳ 2 nút (75)… để bày tỏ rõ hơn trong nhìn nhận.

Nhưng không đủ.

Phải mất đến hơn nửa đời người, tôi mới nhận ra rằng không hề có một giai cấp nào trong đồng bào miền Bắc của đất nước mình, mà chỉ có một cuộc sống không được chọn lựa nào đó đã phủ chụp lên từng miền, từng vùng đã ảnh hưởng cùng cực đến họ, tạo ra những điều khó tả nhưng vậy. Ở mọi miền, Nam hay Trung hay Bắc, người ta cũng đều có thể nhìn thấy kẻ vô lại trong giống nòi, nhưng sự khó khăn nhìn nhận luôn thường dành cho phía Bắc, như một ám chỉ về một vùng đất phải chịu sự khác biệt về chính trị trong nhiều năm, như đã ám toán mọi sinh lực sống bình thường của con người.

Tôi nhận ra điều đó, ở một ngày khi thấy chung quanh mình có rất nhiều bạn, kể cả thầy cô, là những người Bắc mà tôi tin cậy. Họ đại diện cho những người “Bắc kỳ” mạnh mẽ, vượt qua số phận và hoàn cảnh của mình để không bị đè bẹp, không hèn hạ hoặc chết, như F. Nietzsche đã viết “những gì không giết được chúng ta, sẽ làm chúng ta lớn mạnh hơn” (That which does not kill us makes us stronger).

60 năm của những người Bắc di cư vào Nam, cho tôi và thế hệ của mình được nhìn rõ họ hơn, nhắc tôi phải nói về một bản di chúc lớn, một bản di chúc vĩ đại mà hơn một triệu người từ bến tàu Hà Nội, Hải Phòng… mang đến cho cả đất nước. Bản di chúc cũng được lưu giữ trong mắt, trong lời nói của từng người Việt tha hương khắp thế giới: bản di chúc về tự do.

Cả miền Nam sau 1954 cần phải có một lời cám ơn văn chương Bắc Kỳ, âm nhạc Bắc Kỳ, báo chí Bắc Kỳ… đã góp tay dựng lên một nền văn hóa của cả đệ nhất và đệ nhị cộng hòa của miền Nam. Nền văn hóa ngắn ngủi nhưng đủ trường tồn và mạnh mẽ vượt qua một chướng ngại, tồn tại trong lòng người từ sau 1975 đến nay, ở Việt Nam và trên cả thế giới. Cùng với những người anh em từ vĩ tuyến 17 đến mũi Cà Mau, những người Bắc đó đã làm tất cả để bù đắp, để dựng xây… cho thỏa sức, việc họ phải rời bỏ rất xa quê nhà, thậm chí trơ trọi, chỉ để đổi lại hai chữ tự do.

Rất nhiều năm sau đó, con cháu của những người Bắc 54 cũng lớn lên ở miền Nam hay vượt đại dương đến nơi nào đó, không ít người trong họ vẫn âm thầm mang theo một bản di chúc có thể sống mãi đến nhiều thế hệ sau về tự do, và chọn lựa vì tự do. Trong một lần ở Mỹ, tôi nghe phát thanh viên của một đài radio người Việt bình luận về một nỗi nhớ quê nhà Hà Nội. Nhớ con đường quanh Hồ Gươm, nhớ con hẻm có bán canh bún nhỏ… Giọng Bắc của anh ta trầm buồn như mới ngày hôm qua còn nhìn thấy những thứ đó, trong khi tôi biết rõ anh chưa về Việt Nam một ngày nào, kể từ tháng 4/1975. Sau lần phát thanh đó, gặp anh, tôi trêu là sao anh nói cứ như là cứ vừa ở Việt Nam về. Đột nhiên giọng anh trầm lại “Phải cố gắng nhớ dù chỉ là tưởng tượng lại. Phải nhớ như nhớ lời của ông bà mình xua mình xuống tàu, trối dặn mình phải sống với tự do”. Tim tôi như thoáng ngừng đập trong tíc tắc. Dòng người mờ ảo trong những cuốn phim tài liệu trắng đen về số phận Việt Nam chia cắt ập về. Tôi cũng nhận ra rằng bản di chúc tự do đó, không phải những người Bắc Kỳ chia cho nhau, mà còn chia lại cho tôi, cho bạn, cho cả dân tộc này. Từng người chúng ta đã được nhận. Chọn lựa mình hôm nay khốn nạn hay tử tế, là do mình đã không chịu nhìn thấy di sản của cha ông gửi lại, qua bản di chúc không thành văn này.

Tôi nhìn thấy người bạn trẻ của tôi, con một người Bắc di cư, nay sống ở Biên Hòa. Anh đưa lên facebook một tấm ảnh kỷ niệm 60 năm người Bắc xuống tàu vào Nam. Khi bên ngoài người ta nói về những điều lớn lao như hiệp định Genève và các chính quyền, thì cũng có một dòng người không nhỏ đưa lại những hình ảnh thuộc về con người như vậy. Có những tấm ảnh khiến mình phải lặng đi khi thấy cụ già bước gấp vào Nam, hành lý trên tay quý nhất chỉ là tấm hình Đức Mẹ. Người bạn trẻ của tôi đưa lên tấm ảnh người ta chen chúc chia tay nhau ở một bến tàu. Khó mà biết được ông bà hay cha mẹ của anh đã có mặt ở đó hay không, trong những chấm li ti như cát bụi. Bản thân người bạn trẻ đó thì giờ cũng là phần li ti trong hàng triệu người Bắc 54 đã lớn lên, đã thành đạt ở miền Nam này hôm nay.

Và tôi nhận ra rằng, bản di chúc tự do đó cũng vẫn đang âm thầm trong anh, như bao phần li ti khác đang trỗi lên, trên đất nước này.


7 comments:

  1. Không còm vào bài Bắc Kỳ và Nam Kỳ của bác Trần Sâm được nên tạm còm vào đây nhé.
    Tại sao trong Nam con cả chỉ được gọi là “anh Hai”, “chị Hai”? Vì dân miền Nam ngày nay là con cháu của dân Bắc di cư vào Nam lập nghiệp từ mấy trăm năm trước. Truyền thống Nho giáo rất kiêng kỵ việc cha mẹ mất khi con cả vắng nhà, vì thế con cả không được phép đi xa để nhỡ cha mẹ có ốm nặng thì còn về kịp. Chính vì thế mà những đoàn người di cư vào Nam lập nghiệp dạo ấy toàn con thứ, không hề có con trưởng (con trưởng phải ở lại ngoài Bắc chăm sóc cha mẹ già). Để tỏ lòng tôn kính các bác cả ngoài Bắc, dân trong Nam quy định chỉ được gọi các con từ “hai” trở xuống.

    ReplyDelete
  2. Người miền nam không nói nhưng họ hành động vì đây là bản chất bộc trực của người miền nam.
    Họ đã dang rộng tay để đón những người anh em đau khổ miền bắc. Từ phía nam dòng sông Bến Hải cắt chia đôi bờ, đất đai nơi đâu cũng có chủ, nhưng nơi đâu cũng có những đồng bào miền bắc di cư mới đến lập nghiệp.
    Đã có hàng triệu, triệu gia đình là kết quả của những cuộc hôn nhân nam, bắc một nhà. Người miền nam, người miền bắc cưới gả nhau, kết chặt cuộc đời với nhau băng hôn nhân của mình, của con cháu (tương tự, tình trạng này cũng xãy ra giữa người Việt, người Cambodian, người Lào). Chính trị chia rẽ sắc tộc, vùng, miền. Nhưng trái tim con người thì không.

    Chính trị cộng sản ngu xuẫn đã chia rẽ bắc nam. Còn người miền bắc, người miền nam không ai chia cắt được trái tim của họ một khi họ cảm thấy đã tìm đúng một nửa kia của mình.
    Ai đem nam, bắc ra bàn luận với dụng ý chia rẽ, kẻ ấy luôn luôn thất bại.
    Chính trị nhằm chia rẽ giai cấp, chia rẽ con người là thứ chính trị...ngu xuẫn nhất trần gian.

    ReplyDelete
  3. ai da song o mien bac nhung nam 60, 70 thi moi hieu che do XHCN la the nao?

    ReplyDelete
    Replies
    1. Cả nước hiểu chế độ XHCN từ năm 1975... làm theo suc hưởng theo nhu cầu , sung xướng lắm các bác ạ

      Delete
  4. Chế độ cs đến ngày sụp đổ, đầu nảo cs toan tính chuyện cao chạy xa bay, passports có sẵn, visa nhập cảnh nước khác đã có sẵn trong túi, nhưng những phần tử ngu xuẫn, hung hăng trong hàng ngủ công an thì không biết thế, chúng vẫn hung hăng với bản chất đần độn, hung ác của chúng, vì thế bọn này chắc chắn không tránh khỏi đền tội trước nhân dân, trong khi người khôn thì ăn ở, cư xử ngu xuẫn như thế.

    Trong những ngày biến động, cảnh sát Ukraine đã phải quỳ xuống xin lổi nhân dân Ukraine vì họ là những người có ý thức dân tộc cao. Những phần tử công an Việt Nam do Trung cộng và Việt cộng mướn từ những thành phần bất hảo, ngu dốt trong xã hội do đó ý thức dân tộc không hề có trong thành phần này.

    Vì không có ý thức dân tộc, không biết mình từ đâu đến nên những phần tử công an cộng sản hung ác không biết bản thân sẽ đi về đâu, nhưng nhân dân Việt Nam thì biết rất rõ số phận những kẻ này sẽ đi về đâu.

    Nhân dân chỉ im lặng nhận ghi tội ác của chúng, cướp nhà, cướp đất của ai? Là tay sai, đệ tử của ai? Phe cánh nào? Lợi dụng chức vụ đòi hỏi hối lộ, làm tiền ai? Bao nhiêu, đánh đập ai? Đã từng hung hăng, hống hách với ai? Hăng say báo cáo hãm hại ai? Địa chỉ nơi cư trú cùng thân nhân gần, xa của những phần tử tội phạm này, ghi ảnh chúng và đưa lên Internet.

    ReplyDelete
  5. Nói thế chứ những thanh niên sinh viên VN.từng tranh đấu chống VNCH.thập niên
    1960-1970 như Đoàn Văn Toại trong "Thổn thức Việt Nam" thì không nghĩ như vậy.
    Trái lại,họ còn cho là người di cư từ Bắc vào Nam kể những chuyện tàn ác ngoài
    Bắc là nói không thật,nhằm biện hộ cho việc di cư của mình.
    Hoá ra,chỉ sống với và sống trong chế độ CS. thì người ta mới hiểu hết sự thật !

    ReplyDelete