“Suốt
40 năm trên nấm mồ hoang không hương khói, cây phượng vĩ vẫn nở những chùm hoa
đỏ rực...” –Ứa nước mắt khi đọc những dòng này.
Tôi
nghe nói về công cuộc cải cách ruộng đất nhiều, nhưng chưa bao giờ đọc bất cứ một
câu chuyện nào. Chỉ biết là nó bi thảm lắm nên sợ không dám đọc. Sợ đọc xong
mình không biết sẽ làm gì. Hôm nay là lần đầu tiên....mà cũng chỉ dám đọc câu
chuyện đi tìm mộ. Vậy mà đã thấy nghẹn ứ nơi cổ họng.
Mới gần đây, triển lãm về cải cách ruộng đất còn được mở ở Hà Nội đấy. Nhưng mới được vài ngày đã đóng cửa mất rồi.
Bài trên facebook của nhà báo Nguyễn Thông
Bà Cát Hanh Long tức bà Nguyễn Thị Năm, bị cách mạng vô sản quy là
địa chủ cường hào gian ác, lôi ra xử bắn năm 1953. Hôm nay 13.3, tôi may mắn
được đọc trên tờ báo An ninh thế giới số mới nhất (12.3) bài viết về bà Năm của
nhà báo Xuân Ba bạn tôi. Chỉ mong sao cái chính quyền này biết cúi đầu thừa
nhận những sai phạm tày trời của họ để chiêu tuyết cho những nạn nhân mà họ đã
đày ải oan ức khốn cùng. Nhưng tôi (và có lẽ cả bạn tôi nữa) đều hiểu rằng điều
ấy rất khó.
Giờ thì anh Xuân Ba mới lên tiếng chứ tôi và em gái tôi, cô Người Làng Tràđã viết về
bà Năm từ năm 2007 cơ, trong lần đi tìm mộ người chú ruột hy sinh và được chôn
cất tại đồn điền của bà Năm ở Đồng Bẩm, Thái Nguyên. Chính chú tôi là một trong
hàng nghìn người được bà Năm cưu mang thời kháng chiến, vì vậy gia đình tôi rất
biết ơn bà.
Xin biên lại đây một phần liên quan đến bà Năm trong những ghi
chép ngày ấy:
Chiều 6.8, nhớ câu nói của bà cụ Vãn “những người chết tại đồn
điền trong khoảng những năm 1950 - 1953 đều chôn ở khu vực ao sen” nên chúng
tôi dò hỏi và tập trung tìm kiếm tại nơi này. Trên thực địa mênh mông, nhà cửa
chen lẫn rừng cây, chỗ nào chẳng giống chỗ nào. Ao sen ở đâu, liệu có còn? Theo
lối mòn cạnh tường rào UBND huyện Đồng Hỷ, đến nơi cách đường lớn khoảng ba bốn
trăm mét chúng tôi chỉ thấy một bờ cây gai góc rậm rạp. Gặp bà cụ ngoài 70 đang
chăn trâu, cụ hỏi ngay “chắc cô chú đi tìm mộ?”.
Chúng tôi lại một phen kinh ngạc liền hỏi thăm bà cụ ao sen chỗ
nào. Cụ chỉ tay “ngay cạnh chỗ cô chú đứng chứ đâu”. Nhìn kỹ thấy đúng là có
cái ao thực, hình bầu dục, vẫn còn những bậc đá lên xuống. Phía bên phải ao,
nhà cửa cây cối sầm uất, rậm rạp. Vạch cây rẽ lá, chúng tôi dò tìm quanh quẩn
một lúc thì phát hiện đằng góc ao có đống đá nhỏ, trong đó một hòn to hơn và có
vẻ trắng hơn. Chả biết có phải cô đồng Hà nói vậy mà mình cảm thấy vậy chăng?
Nửa phân vân, nửa hy vọng, chúng tôi lại gần đống đá và thắp hương khấn mong
chú Liễn về phù hộ.
Đi thêm một đoạn chợt thấy ngôi nhà xây tường gạch bao quanh,
chúng tôi gõ cửa. Một phụ nữ ngoài 40 đẹp hiền hậu ra mở cửa đưa chúng tôi vào
nhà mặc dù chưa biết khách là ai. Nhìn những huân huy chương treo trên tường,
tôi biết đây là nhà đại tá Mai Trung Lâm, nguyên tư lệnh trưởng Quân khu 2, đã
mất. Sau khi con dâu (người phụ nữa ấy) vào báo tin, bà Lâm ra tiếp. Kha thưa
với bà mục đích chuyến đi, bà tỏ vẻ rất xúc động khi nghe chuyện về ông Liễn
bởi bà từng là cán bộ kháng chiến hoạt động tại vùng này. Hỏi về khu đồn điền,
bà Lâm bùi ngùi kể cho chúng tôi về bà Cát Hanh Long - Nguyễn Thị Năm và những
đóng góp to lớn của bà Năm với cách mạng; bà khuyên chúng tôi kiên nhẫn tìm
kiếm, đừng bỏ dở chừng. Bà lại giới thiệu sang gặp cụ Quỳ, người thân thiết với
gia đình bà Năm, nhà cũng gần đó.
Sang gặp cụ Quỳ. Chuyện trò một hồi, khi chúng tôi khoe đã gặp bà
Vãn, cụ Quỳ thoáng nhíu mày, im lặng không nói gì chỉ khuyên chúng tôi nên tìm
gặp ông Hanh, con trai cụ Nguyễn Thị Năm, lại cho cả địa chỉ và số điện thoại
nhà ông Hanh ở Hà Nội.
Biết có ở lại Thái Nguyên cũng chưa thể tìm được mộ vì thông tin
còn quá ít ỏi, hôm sau 8.8.2003 chúng tôi quay trở về Hà Nội. Đến nhà số 117
Hàng Bạc, bé tí chỉ khoảng hai chục mét vuông, may mắn gặp bà Hanh, con dâu
trưởng cụ Năm. Ấn tượng đầu tiên về bà là sự gần gũi cởi mở nhưng vẫn toát lên
vẻ lịch lãm sang trọng. Chúng tôi xin phép thắp hương cho cụ Năm, chạnh buồn
nghĩ đến người phụ nữ mà cuộc đời gắn liền với một giai đoạn cực kỳ hào hùng
nhưng cũng đầy đau thương của dân tộc. Cụ Năm là người đầu tiên bị xử bắn khi
cuộc cải cách ruộng đất “long trời lở đất” năm 1953 mở màn, cái chết của “bà
địa chủ” này đã thành tấn bi kịch không chỉ của một con người, một gia đình mà
của cả một thời kỳ lịch sử. Mặc dù ngay sau đó Nhà nước đã tiến hành “sửa sai”,
nhìn nhận lại những ấu trĩ, sai lầm của “cải cách ruộng đất” nhưng có những nỗi
đau vẫn cứ dai dẳng.
Trò chuyện, bà Hanh bảo: Gia đình tôi rất buồn vì đến giờ cụ (cụ
Năm) vẫn chưa được công nhận là người có công với kháng chiến. Mẹ tôi nuôi
dưỡng, che chở cho cả sư đoàn bộ đội, cán bộ, hiện rất nhiều người còn sống
biết chuyện nhưng đều đã cao tuổi, mai sau họ mất đi thì mọi chuyện sẽ rơi vào
quên lãng. Bà kể thêm, giọng đượm buồn: “Cô chú biết không, cô Đăng (tức bà Vãn
mà chúng tôi đã gặp trên Thái Nguyên) là người giúp việc cho cụ Năm, cụ rất
thương yêu, tin cậy. Vậy mà chả hiểu làm sao tự dưng cô ấy lại chính là người
đấu tố cụ nhà tôi hăng nhất”. Tôi chợt nhớ sự im lặng, trầm ngâm của bà Quỳ lúc
trên Thái Nguyên và thưa lại những điều tốt đẹp mà bà Vãn nói về cụ Năm trong
cuộc gặp vừa qua, bà Hanh nghe nhưng vẫn buồn.
Sau cuộc gặp này, việc liên lạc với gia đình cụ Năm được giao lại
cho Nguyễn Ngọc Trai (con anh Trác), sĩ quan đang công tác tại Cục Bản đồ (Bộ
Quốc phòng). Trước đó ông Hanh có kể cho tôi nghe về chuyện tìm mộ mẹ mình. Sau
khi xử bắn, người ta đã đem xác “địa chủ” Nguyễn Thị Năm đi chôn giấu nơi nào
đó mà thân nhân không hề biết.
Kể từ hòa bình lập lại 1954, gia đình rất nhiều lần tổ chức tìm mộ
cụ nhưng không thành, thất vọng đến mức đành phải lấy tạm một ít đất ở khu vực
đồn điền, nơi bà bị bắn cho vào cái tiểu sành đem về, thay cho hài cốt. Năm
1993, nghe người ta kể về nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Liên ở xã Ngọc Sơn, huyện Tứ
Kỳ (tỉnh Hải Dương), ông Hanh tìm đến. Lúc ấy mặc dù rất bận nhưng ông Liên vẫn
sốt sắng giúp; có lẽ với một người, một số phận như cụ Nguyễn Thị Năm chả ai nỡ
từ chối. Lúc tiến hành tìm kiếm, ông Liên vẫn ở Hải Dương, chỉ hướng dẫn qua
điện thoại.
Cả đoàn nhất nhất làm theo lời nhà ngoại cảm, ông Liên bảo hãy đến
khu vực sân bay cũ bỏ hoang, thấy cây nào có lá nhỏ nhất thì đào. Mọi người
chia nhau tìm trên cả vùng rộng lớn, cây cối um tùm và thật lạ cả khu vực mấy
cây số vuông chỉ duy nhất một cây phượng lá nhỏ. Chưa kịp gọi điện báo về thì
nhà ngoại cảm chủ động gọi, nói chính nơi đó, ngay gốc cây, hãy đào đi. Đào
xuống sâu hơn một mét quả nhiên thấy có bộ hài cốt chôn sơ sài đã nát vụn, duy
chỉ còn mấy chiếc cúc áo của chiếc áo mà cụ Năm mặc khi bị bắn là con cháu nhận
ra ngay.
Mọi người òa khóc. Và may làm sao, không thể nào nhầm được khi lẫn
trong đám xương vụn đó chiếc vòng tay ngọc thạch cụ Năm thường đeo. Cả nhà bùi
ngùi xót thương đưa cụ về. Ông Hanh cùng con cháu đắp thêm đất vào gốc cây
phượng. Suốt 40 năm trên nấm mồ hoang không hương khói, cây phượng vĩ vẫn nở
những chùm hoa đỏ rực viếng hương hồn người đàn bà chịu nhiều oan khiên.
Tháng 8.2007
Tiếng nói bất khuất từ Sài Gòn: Người dân đang sống trong dối trá và bị chế độ CS lừa gạt
ReplyDeleteBài giảng của Linh mục Giu-se Nguyễn văn Toản tại Saigon
http://youtu.be/zN18OezFI2g
Nhắc đến bà Cát Hanh Long làm nhớ đến bài viết "Địa Chủ Ác Ghê". Bài viết này mang đến nhiều cảm xúc: vừa thương xót người phụ nử bị chà đạp và vu khống mà cho đến chết cũng không thể nói một lời biện bạch; vừa căm giận kẻ vu khống đê tiện. Bài viết ký tên CB. Có người nói rằng CB là của Bác. Điều này lại làm tôi đau đớn. Cầu mong sự thật không phải vậy.
ReplyDelete"Có người nói rằng CB là của Bác. Điều này lại làm tôi đau đớn. Cầu mong sự thật không phải vậy." (Trich)
DeleteSự thật: Bạn nên đọc ĐÈN CÙ của Trần Đỉnh để biết về "đại chủ ác ghê" là "cụ hồ che mặt bịt râu" đi xem đấu tố bà Cát Hanh Long (lời Trần Đỉnh).
Trần Đĩnh sinh năm 1930, là nhà báo kỳ cựu của tờ Sự Thật từ những ngày đầu tiên, khi tờ báo của Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác này được thành lập với vai trò Tổng biên tập của Trường Chinh. Trần Đĩnh tự nhận mình là người viết hồi ký cho Hồ Chí Minh, ngoài ra còn viết hồi ký cho Nguyễn Đức Thuận, Phạm Hùng, Lê Văn Lương, Bùi Lâm.
Trần Đĩnh tham gia Việt Minh vào năm 1946 lúc mới 16 tuổi, gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1948. Tháng 12 năm 1945 do hoàn cảnh lịch sử, Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố tự giải tán cùng với cơ quan ngôn luận của nó là tờ Cờ Giải Phóng, nhưng thực chất là rút vào hoạt động bí mật. Hội nghiên cứu Chủ nghĩa Mác ở Đông Dương ra đời và xuất bản tờ báo Sự Thật. Trong thời gian này Trần Đĩnh được điều về viết cho báo. Sau đó, ông được đưa qua học 5 năm tại Đại học Bắc Kinh từ 1955 cho tới 1959.[
Trong vụ án Cải Cách Ruộng Đất, bà Nguyễn Thị Năm (Cát Hanh Long) là người ân nghĩa quen biết với ông Hồ Chí Minh và các đàn em ông ấy. Nhưng bà bị ông Hồ và đàn em đem ra xử bắn vì là địa chủ.
ReplyDeleteTrong vụ án Nhân Văn Giai Phẩm, ông Nguyễn Hữu Đang cũng là người gần gủi và là ân nhân của ông Hồ Chí Minh: ông Đang đã bỏ ra rất nhiều công sức để dựng lên khán đài ở Ba Đình để ông Hồ đọc tuyên ngôn "độc lập" ngày 2/9/2945. Ông Đang không bị giết như bà Cát Hanh Long, nhưng bị tồng giam 15 năm vì liên quan đến nhóm Nhân Văn Giai Phẩm. Ông Đang không đượg miễn án ngày nào. Ông ở tù từ năm 1956 đến năm 1971 mới được tha. Trải qua 15 năm trong tù của ông Đang, ông Hồ Chí Minh ngảnh mắt làm ngơ và không can thiệp cho ông Đang.
Trong vụ án bà đệ nhất phu nhân Nông Thị Xuân, ông Hồ không có một tình cảm vợ chồng tình nghĩa nào với bà ngoài việc ông ta chỉ dùng bà để thỏa mãn nhu cầu sinh lý của ông ta, ông Hồ làm lơ không truy án bà Xuân bị bộ trưởng Trần Quốc Hoàng hiếp dâm và giết dã man sau khi có con với ông Hồ. Con bà Xuân với ông Hồ là Nguyễn Tất Trung cũng không được ông Hồ chăm sóc, che chở.
3 vụ án này nói lên ông Hồ Chí Minh là con người máu lạnh, gian ác thua loài thú, ông ta đạo đức giả qua việc ông ta đã đối xử Cạn Tàu Ráo Mán với người ân nghĩa, người đầu ấp tay gối với ông ta.
Cầm đèn cù-đèn kéo quân là cụ Hồ, VN chỉ sinh ra lãnh đạo ăn bằng cái máng heo thì đành chịu. Nhục cho bà con dòng họ chứ hãnh diện nỗi gì.
ReplyDeleteTiều rằng,
ReplyDelete....
Nhìn vào thiểu số cầm đầu, ,
Trước nghèo xơ xác, nay giàu hơn xưa.
Còn thì đa số đẩy đưa,
Lại rơi xuống duới mức nghèo người ta.
"Giai cấp" thay đổi, như ma.
Làm gì mà có, tầng này lớp kia.
Cổ vũ giai cấp mù loà,
Mờ mờ ảo ảo như người đi đêm.
Ma đưa lối, quỉ dẫn đường,
Cứ chọn những chốn đoạn trường mà đi.
Tiều tiếp,
Nhớ đến Cải Cách năm nào,
Lợi dụng xô đẩy Bần Nông làm càn.
Đến khi xã hội vỡ toang,
Thì lại tuyên bố hoàn toàn” thành công”.
Hôm nay những người tay không,
Co’ được ve vãn như ngày hôm qua?
Ngư tiep,
Giai cấp, định nghĩa, trò hề,
Có 2 con lợn, đã là "Phú nông"!
Một gà, một lợn "Trung nông",
Dã tâm, xô đẩy, Bần Nông làm càn.
Luật pháp không có, bạo tàn ,
Vô sản=vô luật, muôn ngàn đau thương.
Xã hội đổ vỡ, cột rường,
Con tô’ cha me, xóm làng tố nhau..
Tội tình, tài sản, chi đâu?
Hận thù, kết tội, Đội nhà, mớm cho. (1)
Cha Mẹ xưng "Con", Ông to,
Con gọi Cha Mẹ, thằng này con kia..
Dâu "tố" bố chồng, dâm dê,
Người ở "tố" chủ, lâm ly, trò hề.
Sau màn vở kịch, vụng về,
Đem ra bắn bỏ, không hề thương tâm!.
Đem ra bắn cả ân nhân (2),
Sau lưng súng nổ, thần linh rụng rời.(3)
Trâu bò cày xéo đầu rơi,(4)
Bắn ngay sân cỏ bao người đứng coi.
Đã lấy của, sao giết người,
Giết thì vẫn giết, cho rời chân tay..
Tiều tiếp,
Xã hội đau đớn bao năm,
Bàn tay ai đó, ai làm, mà ra?
Hoá ra chẳng phải đâu xa,
Cực quyền xô đẩy, để mà..rảnh tay..
Bạo lực, cổ vũ, giật dây,
Bẻ Măng, Mượn Gió, ấy là châm ngôn..
Bần Cố, đập nát, nông thôn,
Mượn tay giết sạch, không còn chút chi..
46, Liên hiệp, làm vì,(1946),(5)
50, liên lạc, di về Trung Hoa.
Đến khi cửa khẩu mở ra,
Vũ khí, mệnh lệnh, Nga- Hoa tuồn vào..
Chiến tranh với Pháp, lật nhào,
Phóng tay phát động, 53, bắt đầu..
Đánh vào giới học, nhà giàu..
Cực quyền.. toàn trị, ngõ hầu tóm thâu..
Mới hay trăm vạn, bay đầu,
Ho hàng, thân tộc, dãi dầu lầm than..
Mất mạng, chết chóc, lỡ làng,
Một lời xin lỗi không màng đưa ra..
Lại còn triển lãm xa hoa..
Vẫn trò Vú Cả, Cái Loa, lâu ngay`.
Đã là cái thứ mặt dầy,
Già Mồm, Gái Đĩ~..suốt ngày tuôn ra..
Đông về, nắng đổ tường hoa,
Ngư Tiều đàm đạo, cùng thưa với đời.
(1) Đội "Cải Cách" bắt "xâu, chuỗi, rễ", "cùng ăn, cùng ở, cùng làm", dựng tội, rồi "cùng ngủ" với con gái người trong nhà.
(2)(3) Trước khi bị giải đi, bà Nguyễn Thị Năm biết là mình sẽ bi giết, có nói với du kích cho biết để bà tụng kinh, nhưng loạt đạn đã nổ ngay sau lưng (theo Trần Huy Liệu, Trần Đĩnh).
(5) Trước 1950, ông Hồ dùng chữ "Đồng Bào". Sau 1950, khi có hậu thuẫn của Trung cộng, ông Hồ không dùng "Đồng bào" nữa, mà đổi thành "Nhân Dân", như không còn đối trọng nữa.